Bác sĩ Phan Hoàng Anh Đào, Giám đốc phòng khám Hội KHHGĐ Đà Nẵng cho biết, phụ nữ ở độ tuổi mãn kinh có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn và chỉ có khoảng 1-2% bệnh nhân ung thư vú là nam giới. Ung thư vú ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của chị em phụ nữ, thậm chí có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
Ai dễ mắc ung thư vú?
Có kinh hoặc mãn kinh muộn trước 13 tuổi
Theo bác sĩ Đào, những người có kinh sớm (trước 12 tuổi), mãn kinh muộn (sau 50 tuổi) và kinh nguyệt kéo dài (hơn 35 tuổi) dễ có nguy cơ mắc ung thư vú.
Thống kê cho thấy, cứ độ tuổi có kinh sớm hơn 4-5 năm thì nguy cơ mắc ung thư vú sẽ tăng gấp đôi, nếu độ tuổi có kinh sớm từ 13-15 tuổi thì khả năng mắc ung thư vú thấp hơn 20% so với những người có kinh sớm dưới 12 tuổi. Tuổi mãn kinh trên 55 tuổi nguy cơ mãn kinh cao gấp đôi so với tuổi mãn kinh dưới 45 tuổi.
Phá thai nhiều lần
Phá thai nhiều lần có thể làm tăng đáng kể khả năng phát triển ung thư vú của phụ nữ.
“Điều này là do sau mỗi lần phá thai bằng thuốc, quá trình mang thai đột ngột bị gián đoạn, nồng độ hormone trong cơ thể giảm khiến các tuyến vú mới phát triển đột ngột ngừng phát triển khiến acini nhỏ lại hoặc thậm chí biến mất, tuyến vú hồi. Tuy nhiên sự phục hồi này thường không hoàn toàn, dễ gây u, đau vú, dễ phát sinh các bệnh về vú, tổn thương vú tái phát nhiều lần có thể trở thành nguyên nhân gây ung thư vú” – Bác sĩ Đào nói.
Tinh thần suy nhược, thường xuyên tức giận, tâm trạng không tốt
Nhiều chị em đã hình thành những thói quen xấu như cơ cấu chế độ ăn uống không hợp lý, thói quen sinh hoạt không tốt, áp lực cuộc sống quá nhiều…
Bác sĩ Đào cho biết: “Thói quen sinh hoạt không tốt khiến tinh thần sa sút, lâu ngày dẫn đến cơ thể bị axit hóa, suy giảm các chức năng của con người, dẫn đến tình trạng kém sắc. lưu lượng máu và các nội tiết tố. Các hiện tượng như rối loạn điều hòa, rối loạn kinh nguyệt gây ra các bệnh về tuyến vú, tức là tăng sản tuyến vú. Nếu không được can thiệp điều trị có khả năng gây ung thư vú”.
Tiếp xúc nhiều lần và lâu dài với các bức xạ khác nhau
Tuyến vú là một mô nhạy cảm với hoạt động gây ung thư của bức xạ điện từ. Vú trẻ đang trong giai đoạn nguyên phân tích cực và nhạy cảm nhất với tác động gây ung thư của bức xạ điện từ.
Khi ung thư vú “gõ cửa”, cơ thể phát 4 hồi chuông báo động
Số liệu dịch tễ học cho thấy tỷ lệ mắc ung thư vú đứng đầu trong các khối u ác tính ở nữ giới. Thật không may, mặc dù tỷ lệ mắc ung thư vú cao nhưng tỷ lệ phát hiện sớm lại không cao.
Khối không đau
Khối không đau là triệu chứng phổ biến nhất của ung thư vú giai đoạn đầu, đồng thời cũng là triệu chứng dễ bị bỏ qua nhất, nhiều người dễ nhầm khối không đau này với tăng sản tiểu thùy vú.
Tăng sản tiểu thùy vú rõ ràng sẽ gây đau đớn khi hành kinh, và các khối u ung thư vú ở giai đoạn đầu thường không đau.
Bất thường về da
Ở một số bệnh nhân, tế bào ung thư xâm nhập vào da và phát triển, dễ hình thành nốt cứng trên da.
Núm vú và quầng vú có bất thường
Nếu khối u xâm lấn vào núm vú dễ dẫn đến núm vú bị lõm xuống, nếu xâm lấn vào quầng vú thì còn tạo thành các mảng đỏ giống như vết chàm.
Núm vú tiết dịch
Nếu không phải trong thời kỳ mang thai và cho con bú, núm vú đột ngột tiết dịch không rõ nguyên nhân, nhất là có lẫn máu, nước và dịch thanh, cũng cần cảnh giác với bệnh ung thư vú.
Tuyến vú là cơ quan tiết ra nhiều loại nội tiết tố, vì vậy sự xuất hiện của ung thư vú có liên quan đến nhiều loại nội tiết tố như estrogen, mãn kinh sớm, mãn kinh muộn, vô sinh, phụ nữ có thời gian cho con bú ngắn thì estrogen càng nhiều, dễ bị bất thường tuyến vú. Ngoài ra, di truyền, hút thuốc lá, chế độ ăn nhiều chất béo cũng có thể gây ra ung thư vú.
Ung thư vú có di truyền không?
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự xuất hiện của bệnh ung thư, và yếu tố di truyền là một trong số đó, tuy nhiên, khác với các bệnh di truyền, “di truyền” của bệnh ung thư không phải là bệnh di truyền trực tiếp mà là xu hướng di truyền, chủ yếu đề cập đến tính mẫn cảm.
“Bản thân ung thư vú không di truyền, nhưng các gen nhạy cảm liên quan đến ung thư vú được di truyền. Hiện nay, có hơn 10 đột biến gen liên quan đến ung thư vú, trong đó phổ biến nhất là BRCA1 và BRCA2” – Bác sĩ Đào cho hay.
Dữ liệu lâm sàng cho thấy bệnh nhân ung thư vú mang gen BRCA1/2 có 50% xác suất di truyền gen gây bệnh cho thế hệ con cháu, so với người không mang đột biến gen BRCA1/2, nguy cơ mắc bệnh ung thư vú trong suốt cuộc đời của họ sẽ tăng 10% – 20 lần, lên tới 87% và nguy cơ ung thư buồng trứng cũng sẽ vượt quá 40%.